Tuyên kỷ niệm 94 năm thành lập Đảng cộng sản Việt Nam
Ngày đăng:
14:55 | 23/02
Lượt xem:
67
Tuyên kỷ niệm 94 năm thành lập Đảng cộng sản Việt Nam
ĐỀ CƯƠNG TUYÊN TRUYỀN
Đợt sinh hoạt chính trị “Vững bước dưới cờ Đảng” nhân kỷ niệm
94 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (03/02/1930 - 03/02/2024);
94 năm ngày thành lập Đảng bộ tỉnh Quảng Nam (28/3/1930 - 28/3/2024)
-----
I. ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM - NGƯỜI LÃNH ĐẠO, TỔ CHỨC MỌI THẮNG LỢI CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM (03/02/1930 - 03/02/2024)
Lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc ta đã chứng minh rằng, yêu nước và giữ nước, kiên quyết chống ngoại xâm, bảo vệ độc lập, chủ quyền và thống nhất đất nước là truyền thống cực kỳ quý báu của dân tộc ta. Nối tiếp truyền thống đó, từ giữa thế kỷ XIX, khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, không cam chịu thân phận nô lệ, Nhân dân ta đã liên tiếp vùng lên đấu tranh qua các phong trào yêu nước diễn ra liên tục và mạnh mẽ bằng nhiều con đường với nhiều khuynh hướng khác nhau. Từ con đường cứu nước của các sĩ phu cho đến các cuộc khởi nghĩa nông dân và con đường cách mạng tư sản... Mặc dù đã đấu tranh rất kiên cường, đầy tâm huyết và chịu những hy sinh to lớn, song, do hạn chế lịch sử, nhất là thiếu một đường lối cứu nước đúng đắn nên các phong trào đó đều không thành công. Lịch sử đòi hỏi phải tìm con đường mới.
Năm 1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành (là Bác Hồ muôn vàn kính yêu của chúng ta) đã ra đi tìm con đường mới cho sự nghiệp cứu nước, đấu tranh giành độc lập dân tộc. Mang trong mình khát vọng lớn lao, cháy bỏng, Người đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, tìm thấy ở học thuyết cách mạng này con đường cứu nước đúng đắn - con đường cách mạng vô sản. Sau nhiều năm bôn ba hoạt động ở nước ngoài, Người đã kiên trì nghiên cứu, học tập, vận dụng sáng tạo và từng bước truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin về Việt Nam, dày công chuẩn bị điều kiện cần thiết cho việc thành lập một đảng cách mạng chân chính.
Ngày 03/02/1930, Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản họp ở bán đảo Cửu Long, thuộc Hồng Kông (Trung Quốc), dưới sự chủ trì của Người (lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc), đã quyết định thống nhất các tổ chức cộng sản ở nước ta thành một Đảng duy nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây là một bước ngoặt lịch sử trọng đại, chấm dứt cuộc khủng hoảng kéo dài về tổ chức và đường lối của cách mạng Việt Nam. Việc Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là thành quả của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước; chứng tỏ giai cấp công nhân Việt Nam đã trưởng thành và đủ sức gánh vác sứ mệnh lịch sử lãnh đạo cách mạng. Sự kiện này đi vào lịch sử dân tộc như một mốc son chói lọi, đánh dấu bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam. Đảng ta ra đời là một hiện tư¬ợng hợp quy luật, đúng với xu thế thời đại, phản ảnh điều kiện khách quan và chủ quan đã chín muồi trong dòng vận động của lịch sử dân tộc cũng nh¬ư trào lư¬u chung của cách mạng thế giới. Đảng ra đời, lãnh đạo xã hội là tính tất yếu khách quan của tiến trình lịch sử dân tộc. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng đã xác định con đường cơ bản của cách mạng Việt Nam, đáp ứng yêu cầu cấp thiết của dân tộc và nguyện vọng tha thiết của Nhân dân.
Từ khi ra đời, Đảng đã gắn bó máu thịt với Nhân dân, được Nhân dân đồng tình ủng hộ và tin tưởng tuyệt đối; dư¬ới sự lãnh đạo của Đảng, cách mạng Việt Nam đã vư¬ợt qua mọi thử thách, phát triển đi lên không một thế lực nào ngăn cản nổi. Đảng ta đã kết hợp một cách nhuần nhuyễn vấn đề giai cấp với vấn đề dân tộc trong việc hoạch định đ¬ường lối và trong chỉ đạo thực hiện; nhờ thế mà Đảng ta đã tập hợp được sức mạnh tổng hợp của toàn thể dân tộc trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc. Chỉ trong vòng 15 năm, Đảng ta đã lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, tiến hành 03 cao trào cách mạng: Cao trào cách mạng 1930 - 1931, với đỉnh cao là phong trào Xô Viết - Nghệ Tĩnh; Cao trào cách mạng đòi dân sinh, dân chủ (1936 - 1939) và Cao trào cách mạng giải phóng dân tộc (1939 - 1945), để đến năm 1945, khi thời cơ cách mạng chín muồi, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo toàn thể dân tộc Việt Nam làm nên thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 “long trời, lở đất”, thành lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vào ngày 02/9/1945.
Ngay sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, cách mạng đã phải đối mặt với nhiều khó khăn, thử thách, cùng một lúc phải đương đầu với “giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm”. Trong hoàn cảnh hiểm nghèo đó, Đảng đã lãnh đạo Nhân dân ta vượt qua tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, kiên cường bảo vệ và xây dựng chính quyền non trẻ; đồng thời, tích cực chuẩn bị mọi mặt để bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Trên cơ sở đường lối kháng chiến “toàn dân”, “toàn diện”, “trường kỳ”, “dựa vào sức mình là chính”, phát huy truyền thống đoàn kết, yêu nước của toàn dân tộc, Đảng đã lãnh đạo Nhân dân lần lượt đánh bại mọi âm mưu, kế hoạch xâm lược của kẻ thù, đặc biệt là thắng lợi trong Chiến dịch Đông Xuân 1953 - 1954 với đỉnh cao là Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” buộc thực dân Pháp phải ký Hiệp định Giơ-ne-vơ (21/7/1954), chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam.
Từ năm 1954 đến năm 1975, đất nước bị chia cắt làm hai miền. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, miền Bắc vừa nỗ lực xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa dốc sức làm tròn nghĩa vụ của hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn. Nhân dân miền Nam tiếp tục cuộc đấu tranh kiên cường để giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước.
Với tinh thần “Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”, “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, trên cơ sở đường lối đúng đắn, sáng tạo của Đảng, với sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, quân và dân ta đã lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước vào ngày 30/4/1975.
Thắng lợi đó “mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc”.
Sau ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, trong lúc phải khẩn trương khắc phục những hậu quả vô cùng nặng nề do chiến tranh để lại, Nhân dân Việt Nam lại tiếp tục phải đương đầu với những cuộc chiến tranh mới. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân và dân ta vừa tập trung khôi phục kinh tế - xã hội, vừa chiến đấu bảo vệ biên giới, bảo vệ độc lập, chủ quyền lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc; đồng thời, làm tròn nghĩa vụ quốc tế giúp Nhân dân Cam-pu-chia thoát khỏi họa diệt chủng và tiến hành công cuộc hồi sinh đất nước.
Trước những yêu cầu mới về phát triển đất nước, để khắc phục những bất cập của cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp dẫn đến sự khủng hoảng kinh tế - xã hội những năm sau chiến tranh, trên cơ sở tổng kết sáng kiến, sáng tạo trong thực tiễn của Nhân dân, Đảng ta đã tiến hành đổi mới từng phần trong nông nghiệp, công nghiệp và trước hết là đổi mới tư duy lý luận về CNXH và từng bước hình thành đường lối đổi mới đất nước.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (tháng 12/1986), trên cơ sở phân tích sâu sắc tình hình đất nước và qua quá trình tìm tòi, khảo nghiệm thực tiễn, với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”, đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, đánh dấu bước ngoặt quan trọng trên con đường quá độ lên CNXH ở Việt Nam. Đường lối đổi mới ra đời đã đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn lịch sử, thể hiện bản lĩnh vững vàng, tư duy sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và mở ra một thời kỳ mới cho sự phát triển của đất nước.
Sau Đại hội VI, Đảng đã từng bước hoàn thiện, cụ thể hóa đường lối đổi mới mà nội dung cơ bản, cốt lõi được thể hiện trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh năm 1991 và Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011) và các văn kiện quan trọng của Đảng qua các kỳ Đại hội.
Những năm 90 của thế kỷ XX, vượt qua thách thức từ sự sụp đổ của mô hình CNXH hiện thực ở Liên Xô và các nước Đông Âu, Đảng Cộng sản Việt Nam, dân tộc Việt Nam đã kiên định, tiếp tục vững bước và sáng tạo trên con đường đi lên CNXH phù hợp với điều kiện cụ thể và đặc điểm của Việt Nam.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng từ khóa VI đến khóa XIII đã ban hành nhiều nghị quyết về những vấn đề cơ bản, hệ trọng của Đảng và sự phát triển của đất nước. Quốc hội thể chế hóa bằng hệ thống pháp luật và các đạo luật, tạo cơ sở pháp lý ngày càng đồng bộ và phù hợp cho quá trình đổi mới. Chính phủ cụ thể hóa thành các cơ chế, chính sách, giải pháp cụ thể để quản lý, quản trị, điều hành công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
Trong việc xác định, đề ra đường lối đổi mới, Đảng ta luôn nắm vững và vận dụng sáng tạo những nguyên lý, quan điểm cơ bản, phương pháp duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và kinh nghiệm thực tiễn trong nước và quốc tế, xử lý tốt các mối quan hệ cơ bản, như: Phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN; xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN “của dân, do dân và vì dân”; kết hợp chặt chẽ đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị; giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; kết hợp có hiệu quả giữa phát triển kinh tế - xã hội với quốc phòng, an ninh, giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; giữa độc lập, tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ…
Thực tế, sau gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới, từ một đất nước nghèo nàn, có cơ sở vật chất - kỹ thuật, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội lạc hậu, trình độ thấp; đến nay, Việt Nam đã vươn lên trở thành nước đang phát triển, có thu nhập trung bình; văn hóa, xã hội tiếp tục phát triển, đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân được cải thiện; công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị có những bước đột phá, được Nhân dân đồng tình ủng hộ; khối đại đoàn kết toàn dân tộc không ngừng được củng cố; chính trị, xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh, độc lập, chủ quyền được giữ vững; vị thế và uy tín của đất nước ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế...
Đến năm 2023, Việt Nam trở thành một quốc gia có quy mô dân số hơn 100 triệu người, thu nhập bình quân 4.280 USD/người/năm; tham gia hầu hết các tổ chức quốc tế, trở thành một thành viên tích cực, có trách nhiệm trong các hoạt động của cộng đồng quốc tế. Đặc biệt, Việt Nam đã thiết lập quan hệ với 193 nước và vùng lãnh thổ; trong đó, đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với 06 nước (Trung Quốc, Nga, Nhật Bản, Ấn Độ, Hàn Quốc và Hoa Kỳ). Với những thành tựu to lớn đã đạt được, chúng ta có cơ sở để khẳng định rằng, “đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”.
Thực tiễn phong phú, sinh động của cách mạng Việt Nam trong 94 năm qua đã chứng minh sự lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng, lập nên nhiều kỳ tích trên đất nước Việt Nam. Mặt khác, thông qua quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta được tôi luyện và ngày càng trưởng thành, xứng đáng với vai trò và sứ mệnh lãnh đạo cách mạng và sự tin cậy, kỳ vọng của Nhân dân. Thực tiễn đó khẳng định một chân lý: Ở Việt Nam, không có một lực lượng chính trị nào khác, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam có đủ bản lĩnh, trí tuệ, kinh nghiệm, uy tín và khả năng lãnh đạo đất nước vượt qua mọi khó khăn, thử thách, đưa sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta đã tích lũy và đúc rút được nhiều bài học quý báu, hun đúc nên những truyền thống vẻ vang mà hôm nay chúng ta có trách nhiệm phải ra sức giữ gìn và phát huy: Đó là truyền thống trung thành vô hạn với lợi ích của dân tộc và giai cấp, kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với CNXH trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là truyền thống giữ vững độc lập, tự chủ về đường lối; nắm vững, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tham khảo kinh nghiệm của quốc tế để đề ra đường lối đúng và tổ chức thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ cách mạng. Đó là truyền thống gắn bó máu thịt giữa Đảng và Nhân dân, luôn lấy việc phục vụ Nhân dân làm lẽ sống và mục tiêu phấn đấu. Đó là truyền thống đoàn kết thống nhất, có tổ chức và kỷ luật chặt chẽ, nghiêm minh trên cơ sở nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình, phê bình và tình thương yêu đồng chí. Đó là truyền thống đoàn kết quốc tế thủy chung, trong sáng, dựa trên những nguyên tắc và mục tiêu cao cả.
II. ĐẢNG BỘ TỈNH QUẢNG NAM - 94 NĂM VỮNG BƯỚC DƯỚI CỜ ĐẢNG (28/3/1930 - 28/3/2024)
Ngày 03/02/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập. Chỉ chưa đầy hai tháng sau đó, vào ngày 28/3/1930, Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Quảng Nam chính thức ra đời. Sự kiện thành lập Đảng bộ tỉnh Quảng Nam đánh dấu một mốc son quan trọng trong lịch sử đấu tranh cách mạng của Nhân dân Quảng Nam, đưa phong trào cách mạng địa phương bước sang một thời kỳ mới - thời kỳ đấu tranh giành độc lập dưới ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong 94 năm qua, Đảng bộ tỉnh luôn vận dụng đúng đắn và sáng tạo chủ trương, đường lối của Đảng vào tình hình thực tiễn của địa phương để đề ra những chủ trương đúng đắn, linh hoạt, thể hiện nét đặc trưng của Đảng bộ tỉnh, lãnh đạo phong trào cách mạng Quảng Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Ngay sau khi ra đời, Đảng bộ tỉnh Quảng Nam đã tập trung củng cố và phát triển tổ chức, tích cực hưởng ứng các chủ trương của Trung ương để lãnh đạo Nhân dân toàn tỉnh tổ chức nhiều phong trào cách mạng sôi nổi. Trong những năm 1936 - 1939, Đảng bộ lãnh đạo thành công cao trào đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ. Đặc biệt, từ cuối năm 1939, Đảng bộ nhiều lần bị đánh phá, bể vỡ, Tỉnh ủy và nhiều phủ ủy, huyện ủy bị lộ, nhiều đồng chí bị địch bắt, giam cầm, tra tấn, sát hại, nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, phong trào vẫn được giữ vững, tổ chức được củng cố vững chắc hơn trước, tinh thần cách mạng, ý chí đấu tranh kiên cường của đội ngũ cán bộ, đảng viên không ngừng nâng lên, kinh nghiệm tích lũy được nhiều hơn. Đặc biệt, Đảng bộ tỉnh đã thể hiện bản lĩnh, trí tuệ của mình gắn với những quyết định đúng đắn, sáng tạo, kịp thời để lãnh đạo thành công cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong Cách mạng tháng Tám năm 1945, đưa Quảng Nam trở thành một trong 05 tỉnh giành chính quyền ở tỉnh lỵ sớm nhất cả nước .
Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954), Đảng bộ tỉnh Quảng Nam quán triệt sâu sắc và vận dụng linh hoạt đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mình là chính của Trung ương Đảng, toàn đảng, toàn dân, toàn quân Quảng Nam đánh bại âm mưu “đánh nhanh, thắng nhanh” của thực dân Pháp, giữ vững vùng tự do Liên khu 5, phá âm mưu “chiêu an”, “dồn dân” của địch, lập nên chiến thắng Bồ Bồ - một “Điện Biên Phủ” ở Quảng Nam, góp phần đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đi đến thắng lợi cuối cùng.
Trong suốt 21 năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954 - 1975), phong trào cách mạng miền Nam nói chung, Quảng Nam nói riêng phải đối mặt với nhiều khó khăn, thử thách khốc liệt. Đây là giai đoạn mà Đảng bộ và Nhân dân Quảng Nam phải chịu đựng nhiều gian khổ nhất, hy sinh, mất mát lớn nhất. Đặc biệt, những năm 1954 - 1959 là giai đoạn đen tối nhất của cách mạng Quảng Nam, nhiều lúc khó khăn tưởng chừng không thể vượt qua. Chính trong giai đoạn “lửa thử vàng” này, Đảng bộ đã được tôi luyện, phẩm chất người cộng sản càng ngời sáng. Từ sau khi Nghị quyết 15 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa II ra đời, Đảng bộ đã vận dụng sáng tạo, linh hoạt phương châm “hai chân ba mũi giáp công”, đưa phong trào đấu tranh chính trị đơn thuần sang kết hợp đấu tranh vũ trang. Nhờ đó, phong trào đấu tranh cách mạng của tỉnh nhà dần được khôi phục và phát triển. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh, quân và dân Quảng Nam đã lập nên nhiều chiến công vang dội, ghi danh vào lịch sử dân tộc với danh hiệu “Quảng Nam - Đà Nẵng: Trung dũng kiên cường, đi đầu diệt Mỹ”, hoàn thành nhiệm vụ giải phóng quê hương (24/3/1975), góp phần xứng đáng vào sự nghiệp giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975).
Sau ngày quê hương được giải phóng, Đảng bộ, quân và dân Quảng Nam bắt tay vào công cuộc hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục sản xuất, từng bước ổn định đời sống nhân dân, bảo vệ thành quả cách mạng. Đặc biệt, trong công cuộc đổi mới gần 40 năm qua và 27 năm tái lập, Quảng Nam đã từng bước vượt qua khó khăn, vươn lên mạnh mẽ, đạt được những thành tựu to lớn, toàn diện trên mọi mặt đời sống xã hội. Từ một trong những tỉnh nghèo nhất cả nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh, đến nay, Quảng Nam đã trở thành tỉnh phát triển khá của miền Trung và trong nhóm các tỉnh, thành phố có đóng góp ngân sách cho Trung ương. Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa quan trọng của phong trào cách mạng tỉnh Quảng Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh trong 94 năm qua đã thể hiện sức mạnh nội sinh, là kết tinh của bản lĩnh, trí tuệ, là thành quả của một quá trình nỗ lực, phấn đấu bền bỉ, khát vọng vươn lên, ý chí không cam chịu thân phận nô lệ, không cam chịu đói nghèo; là nhân tố hết sức quan trọng, tạo tiền đề để tỉnh Quảng Nam phát triển nhanh và bền vững trong giai đoạn đến.
Năm 2023, Đảng bộ tỉnh đã đánh giá giữa nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XXII; theo đó, kết quả đạt được khá toàn diện: Công tác chính trị, tư tưởng, đạo đức được các cấp ủy đảng chú trọng và triển khai đồng bộ, thường xuyên lãnh đạo thực hiện bằng nhiều phương thức; công tác xây dựng Đảng về tổ chức, cán bộ được triển khai toàn diện, quyết liệt; công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật trong Đảng tiếp tục được đổi mới; chất lượng, hiệu lực, hiệu quả được nâng lên; công tác dân vận của hệ thống chính trị tiếp tục có nhiều chuyển biến tích cực cả về nhận thức, trách nhiệm và hành động. Phương thức lãnh đạo của Đảng được chú trọng, đổi mới. Kinh tế - xã hội đạt được kết quả tự hào, động lực cho sự phát triển của tỉnh: Tốc độ tăng trưởng GRDP (giá so sánh 2010) bình quân 03 năm 2021 - 2023 khoảng 3,8%. Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh tăng bình quân giai đoạn 2021 - 2023 gần 5,5%/năm; quy mô nền kinh tế (giá hiện hành) năm 2023 khoảng 112,5 nghìn tỷ đồng; GRDP bình quân đầu người khoảng 74 triệu đồng/người/năm. Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới đạt được những kết quả nhất định. Chất lượng giáo dục - đào tạo có chuyển biến tích cực, tỷ lệ trường đạt chuẩn quốc gia được nâng lên; giáo dục miền núi, vùng đồng bào dân tộc được quan tâm; hoạt động khoa học và công nghệ ngày càng được quan tâm và đạt nhiều kết quả trên một số lĩnh vực, nhất là công tác quản lý tiêu chuẩn - đo lường - chất lượng. Đầu tư, phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Quảng Nam. Việc quản lý, phát triển xã hội bền vững, bảo đảm công bằng xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống nhân dân được quan tâm. Công tác giảm nghèo đạt được những kết quả quan trọng; đến cuối năm 2023, tỷ lệ hộ nghèo còn 5,57%. Công tác quản lý và sử dụng hiệu quả tài nguyên, bảo vệ môi trường; chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu và phòng, chống thiên tai. Nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân và biên phòng toàn dân được đẩy mạnh. Đã triển khai hoàn thành tốt nhiệm vụ đối ngoại trên các mặt công tác đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại Nhân dân. Công tác nội chính; phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; cải cách tư pháp. Công tác thanh tra, tiếp công dân, giải quyết đơn, thư khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh được tăng cường. Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, dân chủ XHCN, bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân. Hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý, điều hành của hệ thống chính quyền các cấp; cải cách hành chính được quan tâm. Tiếp tục kiện toàn, sắp xếp tổ chức bộ máy chính quyền các cấp theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả...
Tuy nhiên, bên cạnh kết quả, thành tựu nổi bật qua 94 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh, thẳng thắn và nghiêm túc nhìn nhận, tự soi rọi lại chúng ta thấy rằng vẫn còn một số tồn tại, hạn chế trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo trên các mặt công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, trong nhiệm vụ lãnh đạo kinh tế - xã hội có mặt vẫn chưa đáp ứng yêu cầu phát triển và tương xứng với tiềm năng to lớn, với truyền thống bề dày của lịch sử, văn hóa, đất và người Quảng Nam... Đặc biệt, một số sai phạm đã được Ủy ban Kiểm tra Trung ương kiểm tra, kết luận và năm 2023, tập thể Ban Thường vụ Tỉnh ủy và một số tổ chức đảng, đảng viên bị xử lý kỷ luật là bài học kinh nghiệm sâu sắc để Đảng bộ và mỗi cán bộ, đảng viên nghiêm túc tự soi, tự sửa; đồng thời, khẩn trương xây dựng và triển khai các giải pháp khắc phục trong thời gian đến.
Quá trình xây dựng và phát triển của Đảng bộ rút ra những bài học kinh nghiệm quý báu, cần tiếp tục phát huy trong sự nghiệp xây dựng quê hương ngày nay: Một là, kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, quán triệt và vận dụng sáng tạo, linh hoạt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và phương châm, phương pháp cách mạng của Đảng vào thực tiễn xây dựng và phát triển tỉnh Quảng Nam trong thời kỳ mới. Hai là, phát huy truyền thống đoàn kết trong toàn Đảng bộ, truyền thống yêu nước và cách mạng của quê hương, tinh thần tự chủ, tự lực, tự cường, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm trước Nhân dân; gần dân, dựa vào dân, “lấy dân làm gốc”, tất cả vì hạnh phúc của Nhân dân. Ba là, cùng với việc phát triển kinh tế, phải chăm lo phát triển văn hóa, xây dựng con người, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh và trật tự, an toàn xã hội; sẵn sàng hy sinh vì nghĩa vụ quốc tế với tinh thần giúp bạn cũng là giúp chính mình. Bốn là, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ, xây dựng Đảng bộ trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên vững vàng; chăm lo xây dựng chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, tăng cường củng cố khối đại đoàn kết toàn dân. Năm là, phát huy truyền thống văn hóa, cốt cách con người xứ Quảng, khơi dậy khát vọng vươn lên với tư duy đổi mới, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì mục tiêu xây dựng quê hương Quảng Nam ngày càng giàu đẹp, văn minh. Sáu là, xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân vững chắc, làm nòng cốt để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
III. QUYẾT TÂM THỰC HIỆN THẮNG LỢI NHIỆM VỤ CHÍNH TRỊ NĂM 2024, GÓP PHẦN HOÀN THÀNH CÁC MỤC TIÊU, CHỈ TIÊU NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ TỈNH LẦN THỨ XXII, PHẤN ĐẤU ĐƯA QUẢNG NAM TRỞ THÀNH TỈNH PHÁT TRIỂN KHÁ CỦA CẢ NƯỚC VÀO NĂM 2030, TẦM NHÌN ĐẾN NĂM 2050, QUẢNG NAM PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN, HIỆN ĐẠI VÀ BỀN VỮNG, MANG ĐẬM BẢN SẮC VĂN HÓA ĐẶC TRƯNG CON NGƯỜI XỨ QUẢNG
Năm 2024, dự báo tình hình thế giới, khu vực, trong nước đan xen thuận lợi và khó khăn; trong đó, mặt khó khăn, thách thức sẽ nhiều hơn, gay gắt hơn. Đối với Quảng Nam, sau hơn 03 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XXII tuy đã đạt được những kết quả nhất định nhưng vẫn còn một số chỉ tiêu đạt thấp, một số chỉ tiêu dự báo khả năng khó hoàn thành… Vì vậy, để thực hiện thắng lợi các mục tiêu, chỉ tiêu Nghị quyết năm 2024 của Tỉnh ủy đề ra, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XXII và chuẩn bị tốt cho công tác tổ chức đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2025 - 2030, đòi hỏi các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và tổ chức chính trị - xã hội phải nỗ lực khắc phục mọi khó khăn, tận dụng tối đa mọi cơ hội để đẩy mạnh phát triển. Các cấp, ngành, mỗi cán bộ, đảng viên, mỗi người dân Quảng Nam cùng chung sức, đồng lòng, hướng về một mục tiêu chung, vì sự phát triển của tỉnh. Chúng ta cần tập trung triển khai đồng bộ, quyết liệt, hiệu quả các nhiệm vụ trọng tâm được xác định trong năm 2024 với tinh thần quyết tâm cao nhất.
Trước hết, chú trọng triển khai cụ thể hóa chủ đề công tác năm 2024: “Tập trung kiện toàn tổ chức bộ máy và cán bộ; phát huy truyền thống đoàn kết, tinh thần trách nhiệm, chủ động vượt khó, quyết tâm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị năm 2024”; đồng thời, tập trung vào một số nhiệm vụ trọng tâm và giải pháp chủ yếu như sau:
(1) Tăng cường công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị. (i) Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác quán triệt, tuyên truyền và triển khai thực hiện các văn bản chỉ đạo của Trung ương, của tỉnh. Tăng cường công tác nắm bắt, dự báo và định hướng tư tưởng, tạo sự đồng thuận trong Nhân dân; tổ chức hiệu quả các đợt sinh hoạt chính trị, tư tưởng trong cán bộ, đảng viên. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, truyền thống văn hóa, cách mạng nhằm nâng cao lòng tự hào, tự tôn dân tộc, góp phần khơi dậy khát vọng xây dựng, phát triển Quảng Nam giàu đẹp. Tiếp tục thực hiện hiệu quả Kết luận số 01-KL/TW, ngày 18/5/2021 của Bộ Chính trị gắn với thực hiện Kết luận số 21-KL/TW, ngày 25/10/2021 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII. Triển khai thực hiện tốt chuyên đề về học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh năm 2024; xây dựng chuẩn mực đạo đức của cán bộ, đảng viên trong tình hình mới; xây dựng, phát huy giá trị văn hóa, con người Quảng Nam trong giai đoạn mới. Tiếp tục thực hiện tốt công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, kiên quyết đấu tranh phản bác kịp thời, có hiệu quả các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới. Phát huy vai trò, hiệu quả hoạt động của Ban Chỉ đạo 35 các cấp, đội ngũ báo cáo viên, cộng tác viên điều tra dư luận xã hội. (ii) Chỉ đạo, hướng dẫn tổ chức đại hội đảng bộ các cấp và chuẩn bị nội dung văn kiện, các điều kiện cần thiết để tổ chức đại hội. Kịp thời củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy và công tác cán bộ gắn với việc thực hiện sắp xếp đơn vị hành chính theo lộ trình đề ra; việc kiểm soát quyền lực và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác cán bộ. (iii) Tiếp tục thực hiện tốt việc chuyển đổi vị trí công tác đối với cán bộ, công chức, viên chức trong hệ thống chính trị tỉnh. Đẩy mạnh công tác phát triển đảng viên, chú trọng nâng cao chất lượng đảng viên mới gắn với rà soát, sàng lọc đưa những đảng viên không còn đủ tư cách ra khỏi Đảng; tuyển chọn, đào tạo, tạo nguồn đội ngũ cán bộ trẻ, cán bộ nữ thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy quản lý giai đoạn từ nay đến năm 2025, định hướng đến năm 2030. Thực hiện tốt công tác thẩm tra, xác minh, thẩm định tiêu chuẩn chính trị phục vụ công tác bố trí, sử dụng cán bộ và kết nạp đảng viên. (iv) Triển khai thực hiện hiệu quả Chương trình kiểm tra, giám sát của Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Tỉnh ủy năm 2024 và các văn bản của Trung ương, của tỉnh về công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật của Đảng. Chủ động nắm chắc tình hình, phát hiện và kịp thời kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm. Tập trung kiểm tra dấu hiệu suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. (v) Tiếp tục lãnh đạo thực hiện tốt các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác dân vận, dân tộc, tôn giáo, dân chủ ở cơ sở. Tăng cường công tác theo dõi, nắm tình hình nhân dân, dân tộc, tôn giáo, kịp thời giải quyết những vấn đề bức xúc, nổi cộm liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân, không để xảy ra “điểm nóng”. Thực hiện nghiêm việc đối thoại giữa người đứng đầu cấp ủy, chính quyền với các tầng lớp nhân dân. Phát huy vai trò của Nhân dân trong đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
(2) Đẩy mạnh chuyển đổi mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế; nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, tính tự chủ, khả năng thích ứng, sức cạnh tranh, phát triển kinh tế - xã hội nhanh, bền vững. (i) Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển song song ngành công nghiệp và dịch vụ. Tiếp tục thực hiện tốt Chương trình của Tỉnh ủy về thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 17/11/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Tập trung hoàn chỉnh, trình phê duyệt và triển khai Đề án phát triển Trung tâm công nghiệp chế biến sâu các sản phẩm từ Silica. Triển khai các nhóm dự án ngành công nghiệp thuộc vùng Đông Nam của tỉnh; phát triển mở rộng Khu phức hợp ô tô Chu Lai - Trường Hải. Đẩy mạnh phát triển công nghiệp hỗ trợ phục vụ các ngành công nghiệp chủ lực, có thế mạnh của tỉnh. Xây dựng cơ chế, chính sách hỗ trợ nhà đầu tư triển khai xây dựng hạ tầng các khu, cụm công nghiệp mới trên địa bàn tỉnh. Phát triển dịch vụ - du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh; thu hút, đẩy mạnh phát triển du lịch để lấy lại đà tăng trưởng. Ðẩy mạnh các hoạt động quảng bá, xúc tiến du lịch trong và ngoài nước. (ii) Phát triển kinh tế biển, cảng biển và dịch vụ logistics. Tập trung phát triển kinh tế biển, xây dựng Quảng Nam trở thành một trong những trung tâm kinh tế biển, động lực phát triển của khu vực duyên hải miền Trung và cả nước. (iii) Phát triển nông nghiệp hiện đại, xây dựng nông thôn mới, nông thôn văn minh gắn với phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Tiếp tục thực hiện hiệu quả 03 chương trình mục tiêu quốc gia trên địa bàn tỉnh. Triển khai thực hiện một số dự án quan trọng tại vùng Tây của tỉnh; thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp phát triển bền vững nông nghiệp, nông dân, nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới. Hỗ trợ đầu tư hạ tầng, khôi phục và phát triển các làng nghề để tạo thêm việc làm, tăng thu nhập cho người dân địa phương. Tiếp tục quy hoạch, phát triển vùng chăn nuôi tập trung, nuôi trồng thủy sản theo hướng công nghệ sạch, an toàn. Hình thành các vùng sản xuất hàng hóa chuyên canh, hướng vào cung cấp nguyên liệu, rau quả, thực phẩm chất lượng cao cung ứng cho thị trường. Phát triển các mô hình làng sinh thái nông nghiệp gắn với phát triển du lịch cộng đồng, trở thành các điểm tham quan du lịch. Triển khai đồng bộ, hiệu quả các biện pháp quản lý, bảo vệ và phát triển rừng. Phát triển lâm nghiệp đa chức năng, mô hình nông - lâm kết hợp, trồng rừng gỗ lớn, gỗ quý và lâm sản ngoài gỗ; thực hiện nghiêm chủ trương đóng cửa rừng tự nhiên; bảo tồn đa dạng sinh học, bảo vệ cảnh quan, môi trường sinh thái gắn với phát triển du lịch sinh thái; chủ động bảo vệ, phòng cháy, chữa cháy rừng.
(3) Tập trung triển khai thực hiện hiệu quả phê duyệt Quy hoạch tỉnh Quảng Nam thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 theo Quyết định số 72/QĐ-TTg, ngày 17/01/2024 của Thủ tướng Chính phủ. Theo đó: Tầm nhìn đến năm 2050, Quảng Nam phát triển toàn diện, hiện đại và bền vững, mang đậm bản chất văn hóa đặc trưng con người xứ Quảng; phấn đấu trở thành thành phố trực thuộc Trung ương, có đóng góp lớn cho ngân sách Trung ương; là trung tâm du lịch quốc tế quan trọng trên cơ sở phát huy tối đa giá trị các di sản văn hóa thế giới và khu dự trữ sinh quyển thế giới. Với mục tiêu cụ thể về kinh tế, tốc độ tăng trưởng GRDP bình quân giai đoạn 2021 - 2030 đạt trên 8%/năm; cơ cấu kinh tế: Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm khoảng 9 - 9,5%; khu vực công nghiệp - xây dựng chiếm khoảng 37,5 - 37,8%; khu vực dịch vụ chiếm khoảng 36 - 37,0%; thuế trừ trợ cấp sản phẩm chiếm khoảng 16,2 - 17,0%. GRDP bình quân đầu người đạt trên 7.500 USD. Tổ chức thực hiện các nhiệm vụ Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XXII đề ra, xác định đây là nhiệm vụ trọng tâm để tiếp tục thực hiện các mục tiêu, định hướng và khát vọng của tỉnh giai đoạn 2021 - 2030. Rà soát, điều chỉnh, bổ sung và xây dựng mới quy hoạch xây dựng vùng liên huyện, vùng huyện, quy hoạch chung các đô thị; quy hoạch sử dụng đất cấp huyện và các quy hoạch, đề án khác theo quy định của pháp luật về quy hoạch theo hướng đồng bộ, phù hợp với thực tiễn. Tổ chức tuyên truyền, công khai quy hoạch, xây dựng, ban hành kế hoạch thực hiện quy hoạch theo quy định. Thực hiện quy hoạch Công viên đa chức năng trước Tượng đài Mẹ Việt Nam Anh hùng.
(4) Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện ba nhiệm vụ đột phá chiến lược. (i) Tập trung nguồn lực đầu tư phát triển và hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại, bảo đảm liên thông, kết nối liên vùng và phát triển đô thị. Huy động các nguồn lực phát triển kết cấu hạ tầng gắn với cơ cấu lại nền kinh tế vùng Đông Nam theo hướng dịch vụ du lịch - công nghiệp - kinh tế biển - nông nghiệp công nghệ cao. Phát triển vùng Đông Nam nhằm thu hút các dự án trọng điểm, chiến lược quốc gia, làm động lực để lan tỏa thúc đẩy phát triển vùng Tây cho cả tỉnh và Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung… Phát triển đô thị trên địa bàn tỉnh theo Nghị quyết số 06-NQ/TW, ngày 24/01/2022 của Bộ Chính trị về quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát triển bền vững đô thị Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 phù hợp với điều kiện thực tế, tiềm năng, quy mô, dự báo các nguồn lực đầu tư phát triển. Tập trung xây dựng và phát triển thành phố Hội An theo định hướng thành phố sinh thái - văn hóa - du lịch đến năm 2030 theo tinh thần Nghị quyết số 31-NQ/TU, ngày 31/7/2023 của Tỉnh ủy. Huy động các nguồn lực, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả nguồn vốn từ ngân sách nhà nước; kiểm soát nợ xây dựng cơ bản. Đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư công ngay từ đầu năm 2024. Sử dụng có hiệu quả các nguồn lực xã hội, đa dạng hóa hình thức đầu tư để xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, tập trung cho các công trình, dự án quan trọng, có sức lan tỏa, tạo động lực thúc đẩy phát triển và góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống nhân dân. (ii) Chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư gắn với phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Tiếp tục thực hiện tốt việc chuyển đổi số đồng bộ; Đề án phát triển ứng dụng công nghệ thông tin, xây dựng chính quyền số; Đề án phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử, phục vụ chuyển đổi số quốc gia. Triển khai thực hiện Dự án xây dựng thành phố thông minh tại thành phố Tam Kỳ, làm định hướng quy hoạch đô thị thông minh cho 04 đô thị chính của tỉnh. Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao và lao động có kỹ năng đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh và bền vững của tỉnh gắn với nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, công chức, viên chức trong hệ thống chính trị. Triển khai thực hiện có hiệu quả chính sách thu hút, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trên địa bàn tỉnh. Đẩy mạnh mô hình doanh nghiệp gắn với đào tạo nghề nghiệp, xã hội hóa lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp. (iii) Cải thiện môi trường đầu tư và đẩy mạnh khởi nghiệp đổi mới sáng tạo. Cải thiện chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI), quyết tâm cải thiện thứ hạng chỉ số cải cách hành chính (PAR INDEX), chỉ số về hiệu quả quản trị và hành chính công (PAPI), chỉ số hài lòng của người dân, doanh nghiệp (SIPAS). Rà soát, sửa đổi, bổ sung các cơ chế, quy định, quy trình không hợp lý, chồng chéo, mâu thuẫn; tiếp tục cắt giảm và đơn giản hóa các thủ tục hành chính, điều kiện kinh doanh, cấp phép đầu tư. Tổ chức gặp gỡ, đối thoại với doanh nghiệp; nỗ lực giải quyết các điểm nghẽn, tháo gỡ khó khăn nhằm tạo điều kiện để doanh nghiệp chủ động, linh hoạt, sáng tạo chuyển đổi mô hình sản xuất, kinh doanh phù hợp với tình hình thực tiễn. Năm 2024, phấn đấu phát triển thêm khoảng 1.500 doanh nghiệp, nâng tổng số doanh nghiệp hoạt động trên địa bàn tỉnh lên hơn 10.000 doanh nghiệp. Củng cố, phát triển, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các loại hình kinh tế hợp tác.
(5) Phát triển các lĩnh vực văn hóa - xã hội. (i) Tiếp tục thực hiện tốt Nghị quyết của Tỉnh ủy về phát triển sự nghiệp văn hóa, thể dục thể thao. Chú trọng đảm bảo an sinh, phúc lợi, tiến bộ và công bằng xã hội, hài hòa giữa đô thị và nông thôn, giữa đồng bằng và miền núi. Đẩy nhanh tiến độ thực hiện xóa nhà tạm, nhà dột nát theo tinh thần Chỉ thị số 25-CT/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy. (ii) Tiếp tục quan tâm đầu tư cho công tác y tế gắn với ứng dụng mạnh mẽ các thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư vào các hoạt động y tế. Củng cố, hiện đại hóa, nâng cao năng lực hệ thống y tế, đáp ứng yêu cầu thực hiện thích ứng an toàn, linh hoạt. Tiếp tục củng cố, hoàn thiện, nâng cao chất lượng hoạt động của y tế cơ sở trong tình hình mới. Tăng cường bảo đảm an ninh, an toàn thực phẩm và phòng, chống ngộ độc thực phẩm. Tiếp tục cân đối các nguồn lực đầu tư phát triển ngành Giáo dục và Đào tạo, tạo chuyển biến tích cực cả về cơ sở vật chất, đội ngũ nhà giáo và chất lượng giáo dục. (iii) Tiếp tục nâng cao chất lượng nguồn nhân lực gắn với chuyển dịch cơ cấu lao động, giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập ổn định cho lao động ở các xã nông thôn, miền núi, nhất là lao động trẻ. Triển khai đồng bộ, kịp thời, hiệu quả các cơ chế, chính sách hỗ trợ cho người lao động. Thực hiện tốt Chương trình của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về thực hiện Chỉ thị số 20-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài trong tình hình mới.
(6) Thực hiện tốt công tác quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường. (i) Tiếp tục thực hiện tốt công tác giao đất, cho thuê đất, thẩm định giá đất, giải phóng mặt bằng, tạo quỹ đất sạch để thu hút đầu tư. Rà soát, kiên quyết thu hồi đất đối với các trường hợp giao đất, cho thuê đất đã quá thời hạn quy định nhưng chưa xây dựng hoặc xây dựng kéo dài chưa đưa vào sử dụng. Phát huy hiệu quả hoạt động của Ban Chỉ đạo về đẩy mạnh công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng các dự án trọng điểm trên địa bàn tỉnh. Đẩy nhanh tiến độ thực hiện việc giao đất, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các cơ sở tôn giáo theo đúng quy định. Thực hiện tốt công tác quản lý hoạt động khoáng sản; quy hoạch điểm mỏ; tăng cường bảo vệ khoáng sản chưa khai thác, tập trung ở các loại khoáng sản như cát, sỏi lòng sông, vàng, đất san lấp. Tăng cường chế biến sâu, giảm thiểu ô nhiễm môi trường. (ii) Thực hiện có hiệu quả kế hoạch hành động ứng phó với biến đổi khí hậu; tiếp tục thực hiện chương trình trọng điểm trong chiến lược bảo vệ môi trường. Bảo tồn đa dạng sinh học và hệ sinh thái. Ðẩy mạnh công tác bảo vệ môi trường biển, vùng ven biển, đảo; bảo vệ và phát huy Khu dự trữ sinh quyển thế giới Cù Lao Chàm. Thực hiện nghiêm các quy định về bảo vệ các giống, loài động vật, thực vật quý hiếm. Giải quyết tốt vấn đề môi trường ở các khu, cụm công nghiệp; vấn đề nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn. Chú trọng xử lý chất thải nguy hại, chất thải y tế. Cải tạo và xử lý ô nhiễm môi trường trên các dòng sông, hồ; ứng phó và khắc phục hiệu quả các sự cố môi trường.
(7) Tăng cường công tác nội chính; quốc phòng, an ninh; đối ngoại. (i) Tiếp tục triển khai thực hiện hiệu quả các nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng về công tác nội chính; quốc phòng, an ninh; phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và cải cách tư pháp. Thực hiện tốt công tác thi hành án dân sự; tăng cường công tác tiếp công dân, đối thoại với Nhân dân; phát huy vai trò của người đứng đầu trong công tác tiếp dân, đối thoại trực tiếp với Nhân dân và giải quyết đơn, thư khiếu nại, tố cáo theo quy định, hạn chế khiếu kiện, khiếu nại đông người, vượt cấp. (ii) Tập trung giải quyết kịp thời các vấn đề nổi cộm, phức tạp trên lĩnh vực nội chính; phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; bảo đảm quốc phòng, an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh; thực hiện tốt quy định của Đảng, Nhà nước về bảo vệ bí mật nhà nước. Giữ vững chủ quyền biên giới đất liền, biển đảo quốc gia, xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác, phát triển ổn định lâu dài; không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống. Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Ban Chỉ đạo phòng, chống tham nhũng, tiêu cực tỉnh; Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp tỉnh. (iii) Tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thông tin đối ngoại trong tình hình mới. Ban hành Quy chế về quản lý thống nhất các hoạt động đối ngoại trên địa bàn tỉnh thay thế Quy chế số 03-QC/TU, ngày 30/11/2020 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy phù hợp với tình hình thực tiễn. Tăng cường phát triển cửa khẩu đất liền, thúc đẩy sớm hình thành tuyến hành lang kinh tế Đông Tây kết nối Quảng Nam với khu vực Nam Lào và Đông Bắc Thái Lan.
(8) Xây dựng chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội vững mạnh. (i) Đẩy mạnh công tác cải cách hành chính và chuyển đổi số theo tinh thần Nghị quyết của Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Tỉnh ủy. Tiếp tục phân cấp, ủy quyền đi đôi với việc hỗ trợ nguồn lực phù hợp cho các địa phương; tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính; nâng cao ý thức, tinh thần trách nhiệm, hiệu quả công tác trong thực thi công vụ; lấy sự hài lòng của người dân, tổ chức, doanh nghiệp làm thước đo quan trọng trong cải cách hành chính. Kiểm soát chặt chẽ, xử lý nghiêm các hành vi nhũng nhiễu doanh nghiệp, người dân và đề cao trách nhiệm người đứng đầu. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, điều hành của hệ thống chính quyền các cấp. Kiện toàn, sắp xếp tổ chức bộ máy chính quyền các cấp theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Phấn đấu hoàn thành việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2023 - 2025 và thành lập 02 thị trấn trực thuộc cấp huyện trong năm 2024. (ii) Triển khai thực hiện tốt Nghị quyết của Tỉnh ủy về tăng cường sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, phát huy dân chủ XHCN, bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân trên địa bàn tỉnh; tích cực tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền. Chỉ đạo chuẩn bị tốt nội dung, nhân sự để tổ chức thành công đại hội Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp nhiệm kỳ 2024 - 2029; đại hội hội liên hiệp thanh niên Việt Nam các cấp của tỉnh đảm bảo đúng quy chế, điều lệ và quy định hiện hành. Tiếp tục thực hiện tốt công tác thông tin, tuyên truyền các chủ trương mới của Trung ương, của tỉnh, tạo sự đồng thuận cao trong xã hội. Chú trọng xây dựng, củng cố, quản lý và phát huy vai trò của lực lượng cốt cán từ tỉnh đến cơ sở.
*****
Kỷ niệm 94 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (03/02/1930 - 03/02/2024), toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta vô cùng tự hào vì đất nước có một Đảng Cộng sản kiên cường, trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lãnh đạo Nhân dân ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, làm nên những kỳ tích vĩ đại trong lịch sử dân tộc, đóng góp xứng đáng vào phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, vì hòa bình và tiến bộ của nhân loại. Tự hào về Đảng quang vinh, về Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, mỗi cán bộ, đảng viên và mỗi người dân Việt Nam ở trong nước và cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài càng thấy rõ hơn trách nhiệm của mình, nguyện đi theo Đảng, xây dựng Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh, tiếp tục lãnh đạo Nhân dân ta đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, xây dựng một nước Việt Nam phồn vinh, hòa bình và thịnh vượng.
Đối với tỉnh Quảng Nam, sự kiện ngày 28/3/1930 đánh dấu sự ra đời của Đảng bộ tỉnh là một bước ngoặt lịch sử trọng đại của Nhân dân Quảng Nam. Đến nay, trải qua chặng đường 94 năm vững bước dưới cờ Đảng quang vinh, Đảng bộ tỉnh đã không ngừng lớn mạnh và ngày càng khẳng định được năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của mình bằng những thành tựu to lớn đã đạt được qua từng giai đoạn lịch sử; ngày càng khẳng định được vị thế so với các địa phương trong cả nước.
Với niềm tự hào và phấn khởi, tin tưởng rằng, Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân tỉnh Quảng Nam sẽ chung sức, đồng lòng, tiếp tục hoàn thành xuất sắc trọng trách, phấn đấu đưa Quảng Nam phát triển nhanh, bền vững, trở thành tỉnh phát triển khá trong khu vực và cả nước vào năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050, Quảng Nam phát triển toàn diện, hiện đại và bền vững, mang đậm bản chất văn hóa đặc trưng con người xứ Quảng; đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
-----------------
Tác giả:
Đảng uỷ xã
[Trở về]
Các tin mới hơn:
Các tin cũ hơn: