Tuyên truyền kỷ niệm 120 năm ngày sinh đồng chí Lê Hồng Phong
Ngày đăng:
14:27 | 16/09
Lượt xem:
70
ĐỀ CƯƠNG TUYÊN TRUYỀN
Kỷ niệm 120 năm ngày sinh đồng chí Lê Hồng Phong (1902 - 2022)
(Kèm theo Hướng dẫn số 86 HD/BTGTU ngày 26 /8/2022
của Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Quảng Nam)
I. KHÁI LƯỢC TIỂU SỬ VÀ QUÁ TRÌNH HOẠT ĐỘNG CÁCH
MẠNG CỦA ĐỒNG CHÍ LÊ HỒNG PHONG
Đồng chí Lê Hồng Phong tên thật là Lê Huy Doãn, sinh năm 1902 tại xã
Thông Lạng (nay là xã Hưng Thông), huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An, trong
một gia đình nông dân. Sinh ra và lớn lên ở một vùng quê có truyền thống yêu
nước, với nhiều sĩ phu nổi tiếng, tận mắt chứng kiến cảnh đất nước lầm than, nhân
dân lao động bị áp bức, bóc lột, Lê Hồng Phong đã sớm nuôi trong mình tư tưởng
yêu nước và ý chí làm cách mạng.
Sau khi học xong Sơ học yếu lược, do hoàn cảnh gia đình khó khăn, Lê Hồng
Phong đã xin làm việc tại nhà máy Diêm - Bến Thủy, thành phố Vinh. Chứng kiến
cuộc sống khổ cực của người lao động bị thực dân, phong kiến bóc lột tàn tệ, Lê
Hồng Phong và những người cùng tâm huyết đã vận động anh chị em công nhân
nổi dậy đấu tranh. Sau sự kiện này, Lê Hồng Phong bị đuổi việc.
Cuối năm 1923, Lê Hồng Phong bí mật sang Xiêm (Thái Lan) gặp các nhà yêu
nước Việt Nam. Năm 1924, sang Quảng Châu (Trung Quốc) gia nhập nhóm Tâm
Tâm xã và sau đó gặp Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, được Người giác ngộ cách mạng.
Năm 1925, Lê Hồng Phong gia nhập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên
và tham dự lớp huấn luyện cán bộ cách mạng do Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc tổ
chức, trở thành một trong những cán bộ đầu tiên của cách mạng Việt Nam được
trang bị lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin. Đồng chí được học tập toàn diện về
quân sự và chính trị tại Trường Quân sự Hoàng Phố, Trường Hàng không ở Quảng
Châu (Trung Quốc), Trường Lý luận quân sự của lực lượng không quân Xô-viết ở
Lê-nin-grat (nay là thành phố Xanh Pêtécpua), Trường Đào tạo phi công quân sự ở
Bô-rit-ơ-lep-xcơ (Liên Xô). Sau khi tốt nghiệp, Lê Hồng Phong hoạt động trong
lực lượng Hồng quân Xô-viết và nhận trọng trách liên lạc giữa Đảng Cộng sản
Đông Dương với Quốc tế Cộng sản. Trong thời gian này, Đồng chí được học tập
lý luận cách mạng tại Trường Đại học Phương Đông của Quốc tế Cộng sản ở Mát-
xcơ-va, tốt nghiệp khóa ba năm (1928 - 1931), sau đó vào học tiếp năm thứ nhất
lớp nghiên cứu sinh.
Tháng 11/1931, theo chỉ thị của Quốc tế Cộng sản, đồng chí Lê Hồng Phong
được phân công trở về nước lãnh đạo việc khôi phục, phát triển tổ chức Đảng, đưa
cách mạng Đông Dương vượt qua giai đoạn khó khăn, hiểm nghèo.
Đầu năm 1932, đồng chí Lê Hồng Phong chắp nối liên lạc với các đồng chí
Hoàng Đình Giong, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Văn Nọn, Lương Văn Chi tại thành
phố Nam Ninh, Quảng Tây (Trung Quốc) và xây dựng lại hệ thống tổ chức của
Đảng. Tháng 6/1932, Lê Hồng Phong bàn bạc với các đồng chí lãnh đạo của Đảng
cho công bố bản Chương trình hành động của Đảng do Đồng chí tham gia khởi
thảo và được Quốc tế Cộng sản thông qua.
Tháng 3/1934, đồng chí Lê Hồng Phong làm Bí thư Ban lãnh đạo của Đảng ở
nước ngoài (còn gọi là Ban Chỉ huy ở ngoài của Đảng), chuẩn bị các điều kiện để
tổ chức Đại hội lần thứ I của Đảng.
Cuối năm 1934, Lê Hồng Phong dẫn đầu đoàn đại biểu của Đảng đi dự Đại
hội VII Quốc tế Cộng sản tại Mát-xcơ-va (Liên Xô) từ ngày 25/7 đến ngày
21/8/1935. Cùng đó, tháng 3/1935, Đại hội lần thứ I của Đảng đã diễn ra thành
công, đồng chí Lê Hồng Phong (được bầu vắng mặt) làm Tổng Bí thư Ban Chấp
hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương.
Tháng 7/1936, tại Thượng Hải (Trung Quốc), Đồng chí triệu tập và chủ trì
Hội nghị Trung ương bổ sung Nghị quyết Đại hội lần thứ I.
Tháng 11/1937, đồng chí Lê Hồng Phong về nước và bí mật hoạt động tại Sài
Gòn, trực tiếp cùng Trung ương Đảng chỉ đạo phong trào cách mạng trong tình
hình mới. Tháng 3/1938, Đồng chí tham dự Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương
Đảng, góp phần vào việc thành lập Mặt trận Dân chủ thống nhất Đông Dương đấu
tranh chống phát xít, chống hoạt động phá hoại của bọn Tờrốkít và các khuynh
hướng cô độc, hẹp hòi, tả khuynh ở trong Đảng.
Ngày 22/6/1939, đồng chí Lê Hồng Phong bị thực dân Pháp bắt lần thứ nhất
tại Chợ Lớn, kết án 6 tháng tù giam và 3 năm quản thúc. Ngày 23/12/1939, chúng
đưa Đồng chí về quản thúc tại quê nhà Nghệ An. Ngày 20/01/1940, Đồng chí bị
thực dân Pháp bắt lần thứ hai, giam tại Khám Lớn, Sài Gòn; cuối năm 1940, chúng
đày Đồng chí ra Côn Đảo. Tại đây, biết Lê Hồng Phong là cán bộ lãnh đạo cao cấp
của Đảng, thực dân Pháp tìm mọi cách tra tấn, hành hạ. Trước sự độc ác, dã man
của kẻ thù, Đồng chí vẫn nêu cao chí khí cách mạng, tích cực vận động và chỉ đạo
anh em tù đấu tranh chống địch đánh đập, chống lại những luật lệ hà khắc của nhà
tù. Sức khỏe suy kiệt dần vì đòn thù và bệnh tật, Đồng chí đã trút hơi thở cuối
cùng vào trưa ngày 6/9/1942.
II. NHỮNG HOẠT ĐỘNG VÀ CỐNG HIẾN TO LỚN CỦA ĐỒNG
CHÍ LÊ HỒNG PHONG ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG
VÀ NHÂN DÂN TA
1. Đồng chí Lê Hồng Phong - Người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ
Chí Minh
Cuối năm 1923, Lê Hồng Phong cùng Phạm Hồng Thái và một số thanh niên
yêu nước Nghệ - Tĩnh lên đường sang Xiêm với quyết tâm "nếu không làm rạng
rỡ non sông, quyết không trở về Tổ quốc, quê hương". Đầu năm 1924, từ Xiêm,
Lê Hồng Phong đến Quảng Châu (Trung Quốc) và gia nhập Tâm Tâm xã - một tổ
chức của nhóm thanh niên yêu nước, hoạt động bí mật với tôn chỉ mục đích "Liên
hiệp những người có trí thức trong toàn dân Việt Nam không phân biệt ranh giới,
đảng phái, miễn là có quyết tâm hy sinh tất cả tư ý và quyền lợi cá nhân, đem hết
sức mình tiến hành mọi việc để khôi phục quyền làm người của người Việt Nam" ;
tuy nhiên Tâm Tâm xã cũng bộc lộ sự thiếu hụt những yếu tố cần thiết của một tổ
chức cách mạng chân chính như không có đường lối chiến lược, sách lược rõ ràng
vì thiếu một lý luận cách mạng, tiên tiến soi đường.
Tháng 12/1924, tại một cơ sở bí mật của Tâm Tâm xã ở Quảng Châu (Trung
Quốc), Lê Hồng Phong lần đầu tiên được gặp Nguyễn Ái Quốc; sự gặp gỡ này đã
mở ra bước ngoặt trong cuộc đời hoạt động cách mạng của người thanh niên Xứ
Nghệ. Lê Hồng Phong đã tiếp thu được những quan điểm mới về con đường cứu
nước và Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc cũng sớm thấy nhận thấy những phẩm chất cách
mạng ưu tú, tài năng của Lê Hồng Phong. Tháng 02/1925, tại Quảng Châu (Trung
Quốc), Lê Hồng Phong cùng một số thanh niên yêu nước như Lê Hồng Sơn, Hồ
Tùng Mậu,... được lựa chọn vào Nhóm Việt Nam Thanh niên Cộng sản do Nguyễn
Ái Quốc thành lập và trở thành hạt nhân của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên -
lớp thế hệ cán bộ đầu tiên được Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trực tiếp tuyển chọn, huấn
luyện và đào tạo. Lê Hồng Phong và các đồng chí của mình đã được nghe những bài
giảng về lịch sử phong trào cách mạng quốc tế và cách mạng giải phóng dân tộc, về
những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin... Những bài học đó đã dẫn dắt và nâng
tầm nhận thức của Lê Hồng Phong, từ một thanh niên giàu lòng yêu nước, dám xả
thân vì sự nghiệp cứu nước, cứu dân, trở thành người cộng sản và bộc lộ tư chất, tài
năng của người cán bộ cách mạng. Chính vì thế, Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã gửi
Đồng chí vào những cơ sở đào tạo cán bộ cao cấp của Chính phủ Trung Hoa và
trường đào tạo lãnh tụ của Quốc tế Cộng sản ở Liên Xô.
Trong suốt thời gian đồng chí Lê Hồng Phong đi học tập, đào tạo ở Liên Xô,
Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc thường xuyên liên lạc thông qua đường dây của Quốc tế
Cộng sản. Trong bức thư gửi ngày 02/3/1930, Người thân mật gọi là “Gửi Hồng
Phong Lão” với nội dung thông báo về sự kiện ra đời của Đảng Cộng sản Việt
Nam, đồng thời khẳng định: “Trong nước bây giờ đã có đảng thống nhất vững
vàng, không còn những tệ chia lìa ấu trĩ như trước nữa” . Điều đó thể hiện sự theo
dõi, quan tâm đặc biệt của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đối với Lê Hồng Phong.
Không phụ lòng của người thầy dẫn dắt, đồng chí Lê Hồng Phong đã từng bước
trưởng thành cả về nhận thức lý luận và năng lực lãnh đạo.
Với những đóng góp to lớn trong việc khôi phục và phát triển phong trào
cách mạng Việt Nam những năm 1932-1935, Đồng chí được mời tham dự Đại hội
VII Quốc tế Cộng sản và được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Quốc
tế Cộng sản; được Đại hội lần thứ I của Đảng Cộng sản Đông Dương bầu làm
Tổng Bí thư của Đảng.
Trong thời kỳ Mặt trận Dân chủ Đông Dương (1936 - 1939), với vai trò Ủy
viên Thường vụ Ban Chấp hành Trung ương, đồng chí Lê Hồng Phong có rất
nhiều đóng góp vào việc hình thành chủ trương, đường lối của Đảng, góp phần
đưa cách mạng Việt Nam phát triển lên một tầm cao mới đúng với những tư tưởng
chỉ đạo của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Dù ở cương vị và điều kiện nào, đồng chí
Lê Hồng Phong luôn thể hiện một tấm gương sáng ngời của người cộng sản: sống
vì Đảng, chết không rời Đảng, trọn đời hy sinh phấn đấu vì độc lập, tự do của dân
tộc, vì hạnh phúc của Nhân dân. Đồng chí xứng đáng là một trong những học trò
xuất sắc nhất của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
2. Đồng chí Lê Hồng Phong - Nhà lãnh đạo xuất sắc của Đảng
Cao trào Xô viết Nghệ Tĩnh (1930 - 1931) thất bại, địch khủng bố dã man,
kéo dài liên tục từ cuối năm 1930 đến năm 1935 đẩy phong trào cách mạng Việt
Nam vào giai đoạn vô cùng khó khăn. Hàng ngàn cán bộ, đảng viên và chiến sĩ
yêu nước bị bắn giết hoặc tù đày. Các cơ sở đảng từ Trung ương đến địa phương
bị tan vỡ, nhiều cán bộ lãnh đạo chủ chốt của Đảng bị bắt hoặc bị sát hại, như:
Tổng Bí thư Trần Phú, Ngô Gia Tự, Nguyễn Phong Sắc, Nguyễn Đức Cảnh...
Thực dân Pháp ở Đông Dương câu kết với đế quốc Anh ở Hương Cảng và bọn
quân phiệt ở Trung Quốc, Thái Lan, truy lùng cán bộ của Đảng ta đang hoạt động
ở ngoài nước, Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc cũng bị bắt ở Hồng Công. Trong bối cảnh
đó, sự hình thành một văn bản để hướng dẫn hành động cho những người cộng sản
Đông Dương và sự ra đời của một tổ chức để chắp nối các cơ sở đảng còn lại với
Quốc tế Cộng sản là đòi hỏi khách quan đối với sự tồn tại của Đảng ta.
Cuối năm 1931, sau khi tốt nghiệp trường Đại học Phương Đông, đồng chí
Lê Hồng Phong nhận trọng trách từ Quốc tế Cộng sản trở về nước chỉ đạo việc tổ
chức khôi phục và phát triển các cơ sở Đảng, tiếp tục đưa phong trào cách mạng
tiến lên. Sau chuyến đi dài ngày, vất vả và gian khổ, vượt qua mạng lưới mật thám
dày đặc phong toả, đến đầu năm 1932, Đồng chí đã về đến gần biên giới Việt -
Trung và bắt liên lạc được với chi bộ Đảng đang hoạt động bí mật ở Nam Ninh
(Quảng Tây). Với sự giúp đỡ của chi bộ Đảng do đồng chí Hoàng Đình Giong làm
Bí thư, đồng chí Lê Hồng Phong về Long Châu (một thị trấn nhỏ sát biên giới Việt
- Trung), tổ chức lớp bồi dưỡng, đào tạo cán bộ cơ sở, gây ảnh hưởng của Đảng
trong vùng đồng bào dân tộc Tày, Nùng từ đó mở đường liên lạc về trong nước.
Tại đây, Đồng chí liên tục mở các lớp huấn luyện cho cán bộ từ trong nước sang
học tập, có những đồng chí sau đó đã trở thành lãnh đạo chủ chốt của Đảng như
Hoàng Văn Thụ, Hoàng Đình Giong, Lương Văn Chi. Những cán bộ sau khi được
đào tạo, ngay lập tức được đưa về nước hoạt động, nhờ vậy các tổ chức Đảng
trong nước được khôi phục, nhất là đảng bộ của các tỉnh biên giới như Cao Bằng,
Lạng Sơn và đảng bộ của các thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng,...
Đến cuối năm 1932, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của đồng chí Lê Hồng Phong,
Ban lãnh đạo lâm thời của Đảng được thành lập. Ban lãnh đạo thống nhất chủ
trương tuyên truyền, học tập và hành động theo nội dung của bản kế hoạch
“Chương trình hành động của Đảng” do Lê Hồng Phong tham gia soạn thảo và
được Quốc tế Cộng sản thông qua. Đây là vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng
trong lúc cách mạng Việt Nam bị khủng bố trắng, Đảng đang gặp thoái trào,
những tư tưởng dao động, cơ hội đang thừa cơ trỗi dậy. "Chương trình hành động
của Đảng" là một văn kiện chính trị quan trọng mang tính chất của một cương
lĩnh, đã khẳng định đường lối đúng đắn của Đảng đề ra từ trước; đánh giá cao
những thắng lợi to lớn của phong trào cách mạng Đông Dương; vạch kế hoạch,
phương pháp hướng dẫn cán bộ, đảng viên nêu cao dũng khí đấu tranh, tin tưởng
sức mạnh của Nhân dân, giữ vững vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân, chú ý
học tập kinh nghiệm thực tiễn, sửa chữa sai lầm,... để củng cố Đảng, phát triển các
đoàn thể quần chúng cách mạng. Bản Chương trình hành động của Đảng được Lê
Hồng Phong dùng làm tài liệu giảng dạy cho các lớp cán bộ ở Quảng Tây (Trung
Quốc), đồng thời được nhân bản đưa về nước làm tài liệu tuyên truyền giáo dục
cho đông đảo cán bộ, đảng viên và Nhân dân trong nước đã phát huy tác dụng
thiết thực và ảnh hưởng to lớn.
Tháng 3/1934, dưới sự chủ trì của Lê Hồng Phong, Hội nghị thành lập Ban
lãnh đạo của Đảng ở nước ngoài (Ban Chỉ huy ở ngoài) được tiến hành, dự Hội
nghị có 5 đồng chí . Hội nghị thảo luận về tình hình Đông Dương, tình hình hoạt
động của Đảng ở Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ và Lào; thông tin về tình hình Đảng
Cộng sản Xiêm... Đặc biệt Hội nghị bàn bạc và thông qua các bản Điều lệ của
Công đoàn, Đoàn Thanh niên Cộng sản, Nông Hội đỏ... Sự thành lập Ban Chỉ huy
ở ngoài cùng Hội nghị Ban Chỉ huy ở ngoài và đại diện các tổ chức đảng trong
nước (từ ngày 16 đến ngày 21/6/1934) đã khẳng định vị trí lãnh đạo tối cao của
Ban Chỉ huy ở ngoài đối với các tổ chức Đảng, đồng thời cũng ghi nhận vai trò chỉ
đạo cao nhất của đồng chí Lê Hồng Phong đối với mọi vấn đề về đường lối, tổ
chức của Đảng. Trong đó có việc quan trọng là chuẩn bị mọi mặt về đường lối, tổ
chức, nhân sự cho Đại hội lần thứ I của Đảng Cộng sản Đông Dương.
Từ ngày 27 đến ngày 31/3/1935, Đại hội lần thứ I Đảng Cộng sản Đông
Dương được diễn ra. Đại hội đã thảo luận, thông qua Nghị quyết chính trị về tình
hình quốc tế, trong nước, về Đảng, các tổ chức quần chúng; thảo luận và thông
qua 12 nghị quyết về công tác vận động các đoàn thể, tổ chức quần chúng, Điều lệ
của Đảng Cộng sản và các điều lệ về đoàn thể, hội quần chúng;... Mặc dù không
trực tiếp dự Đại hội nhưng vai trò và tư tưởng chỉ đạo của đồng chí Lê Hồng
Phong đã được thể hiện trong tiến trình và kết quả của Đại hội; đồng thời việc Đại
hội bầu vắng mặt đồng chí Lê Hồng Phong vào cương vị Tổng Thư ký (Tổng Bí
thư) đã khẳng định công lao và uy tín của Đồng chí đối với việc xây dựng đường
lối chính trị, khôi phục cơ quan lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương.
Trong thời gian diễn ra Đại hội lần thứ I Đảng Cộng sản Đông Dương, đồng
chí Lê Hồng Phong cùng đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Đông Dương đến
Mátxcơva tham dự Đại hội VII Quốc tế Cộng sản từ ngày 25/7 đến ngày
21/8/1935. Trong tham luận báo cáo tại Đại hội, bằng cả lý luận và thực tiễn,
Đồng chí đã khái quát lịch sử phát triển của phong trào cách mạng Đông Dương từ
năm 1930 đến năm 1935; nêu bật những thành tích to lớn, những khuyết điểm,
kinh nghiệm mà Đảng đã thu hoạch được trong những năm chiến đấu gian khổ
nhưng vô cùng anh dũng, khả năng, triển vọng của phong trào đấu tranh với điều
kiện tình hình quốc tế và trong nước có những thay đổi mới. Những đóng góp của
Đồng chí thể hiện trong các luận điểm của tham luận đã được Đại hội đánh giá
cao, qua đó ghi nhận sự trưởng thành của Đảng Cộng sản Đông Dương và chính
thức công nhận Đảng ta là một bộ phận thuộc Quốc tế Cộng sản, đồng chí Lê
Hồng Phong được bầu là Ủy viên chính thức của Ban Chấp hành Trung ương
Quốc tế Cộng sản.
Từ cuối năm 1935, tình hình chính trị ở Pháp và Đông Dương diễn ra hết sức
mau lẹ với nhiều thuận lợi và cũng không ít khó khăn. Hơn lúc nào hết, đồng chí
Lê Hồng Phong nhận thấy cần gấp rút truyền đạt những điều chỉnh chiến lược của
Quốc tế Cộng sản đến toàn Đảng, toàn dân trong tình hình mới. Vì vậy, ngay sau
Đại hội VII Quốc tế Cộng sản, với tư cách là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương
Quốc tế Cộng sản, Đồng chí đã triệu tập và chủ trì Hội nghị toàn thể Ban Chấp
hành Trung ương Đảng vào ngày 26/7/1936 tại Thượng Hải (Trung Quốc); chỉ đạo
Hội nghị tập trung vào việc nghiên cứu quán triệt các nghị quyết mới của Quốc tế
Cộng sản, vận dụng vào hoàn cảnh thực tế để điều chỉnh chiến lược, sách lược cho
phù hợp với tình hình hiện tại. Các vấn đề về kẻ thù của cách mạng, nhiệm vụ của
cách mạng, khẩu hiệu cách mạng, sắp xếp lực lượng cách mạng ở Đông Dương
được thảo luận kỹ và thay đổi kịp thời trên cơ sở những chỉ dẫn của Quốc tế Cộng
sản. Theo đề nghị của đồng chí Lê Hồng Phong, Hội nghị quyết định thành lập
Mặt trận nhân dân phản đế Đông Dương, bao gồm các giai cấp, các đảng phái, các
đoàn thể chính trị và tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau và các dân tộc ở Đông Dương
để đấu tranh đòi những quyền dân chủ sơ đẳng. Cùng với việc chuyển hướng
nhiệm vụ cách mạng, Hội nghị quyết định thay đổi các hình thức tổ chức và
phương pháp đấu tranh của quần chúng, từ tổ chức bí mật, đấu tranh bất hợp pháp
là chủ yếu chuyển sang tổ chức và đấu tranh công khai hợp pháp và nửa hợp pháp.
Dưới ánh sáng của Nghị quyết Hội nghị, phong trào đòi dân chủ, dân sinh lan
rộng khắp Đông Dương. Mở đầu là phong trào Đông Dương Đại hội với hàng
trăm ủy ban hành động được thành lập ở các nơi. Các cuộc biểu tình, bãi công đòi
dân chủ, dân sinh, đòi thả tù chính trị diễn ra sôi nổi, tiêu biểu là các cuộc bãi công
của hàng vạn công nhân mỏ Hòn Gai, Cẩm Phả. Báo chí tiến bộ, trong đó có nhiều
tờ báo của Đảng được xuất bản công khai. Sức mạnh đấu tranh của quần chúng đã
buộc chính quyền thuộc địa phải ban bố một số quyền tự do, dân chủ và thả hàng
nghìn tù chính trị. Hội nghị toàn thể Ban Chấp hành Trung ương Đảng có ý nghĩa
to lớn đối với cách mạng Việt Nam. Tại Hội nghị này, chính từ việc vận dụng
chính xác đường hướng chung của Quốc tế Cộng sản, đồng chí Lê Hồng Phong
cùng Ban Chấp hành Trung ương Đảng điều chỉnh chiến lược và thay đổi sách
lược, đưa cách mạng Việt Nam vào một thời kỳ mới, hòa nhập với xu thế chung
của cách mạng thế giới và khu vực.
Trước sự lớn mạnh của phong trào cách mạng trong nước đòi hỏi cần có sự
thảo luận để tìm ra phương thức đấu tranh thực sự sát thực, vì vậy cuối năm 1937,
đồng chí Lê Hồng Phong về nước hoạt động bí mật tại Sài Gòn trực tiếp cùng
Trung ương Đảng chỉ đạo phong trào. Sau một thời gian tích cực chuẩn bị, từ ngày
29 đến ngày 30/3/1938, tại làng Tân Thới Nhất, gần Bà Điểm, Hóc Môn, tỉnh Gia
Định, Hội nghị Trung ương Đảng đã được tổ chức.
Hội nghị đã phân tích tình hình, nhận định rõ thái độ chính trị của các đảng
phái, về phong trào quần chúng nhân dân, đồng thời đánh giá công tác xây dựng
Đảng còn hạn chế như: số lượng đảng viên phát triển không đều, cơ sở đảng các
thành phố, tỉnh lỵ yếu hơn nông thôn, một số đảng viên chưa nắm được chủ trương
của Đảng, còn có tư tưởng cô độc, hẹp hòi; công tác tuyên truyền, thông tin còn
hạn chế, sự kết hợp giữa hoạt động công khai và hoạt động bí mật còn có khuyết
điểm. Trên cơ sở phân tích tình hình, nhận định rõ những khuyết điểm trên các
mặt của công tác Đảng, để đẩy mạnh phong trào đòi dân sinh, dân chủ, cải thiện
đời sống, đồng chí Lê Hồng Phong đã cùng với Hội nghị Trung ương Đảng quyết
định chuyển Mặt trận nhân dân phản đế Đông Dương thành Mặt trận dân chủ
thống nhất Đông Dương nhằm tranh thủ hơn nữa mọi lực lượng có thể tranh thủ,
tập hợp rộng rãi quần chúng nhân dân tham gia cách mạng. Hội nghị xác định
trong quá trình vận động thành lập Mặt trận cần bỏ hết những khẩu hiệu tả khuynh
làm giai cấp tư sản bản xứ và các đảng phái khác e ngại, không dám liên kết cùng
tham gia đấu tranh. Mặt khác, cũng cần đề phòng tư tưởng hữu khuynh, chỉ coi
trọng liên kết các tầng lớp trên mà xem nhẹ phong trào quần chúng nhân dân lao
động. Phương châm là phải thu hút đông đảo quần chúng tham gia các đoàn thể có
tính chất rộng rãi và tổ chức theo các hình thức công khai, bán công khai, đấu
tranh bênh vực quyền lợi thiết yếu hằng ngày của quần chúng, trên cơ sở đó tiến
hành giáo dục quần chúng, nâng trình độ giác ngộ chính trị của quần chúng.
Sau Hội nghị Trung ương tháng 3/1938, đồng chí Lê Hồng Phong tiếp tục
tham gia chỉ đạo phong trào cách mạng ở các tỉnh Nam Kỳ và có nhiều đóng góp
trên mặt trận báo chí nhằm thống nhất các quan điểm của Đảng về đấu tranh dân
chủ. Thông qua các hoạt động tư tưởng, lý luận, đồng chí Lê Hồng Phong đã luận
giải, tuyên truyền, cổ động các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng Cộng
sản Đông Dương, uốn nắn những nhận thức mơ hồ, lệch lạc trên các vấn đề chiến
lược, sách lược trong một bộ phận đảng viên và quần chúng Nhân dân. Đồng thời,
bằng ngòi bút sắc sảo, Đồng chí còn tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh vạch
trần các luận điệu sai trái, phản động, cơ hội chủ nghĩa của bọn tờrốtkít, tay sai
của chủ nghĩa phát xít, củng cố sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng. Trong cuộc
đấu tranh tư tưởng đó, Đồng chí tỏ rõ sự nhạy bén, bản lĩnh chính trị, sự kiên định
và trình độ tri thức lý luận khoa học; góp phần quan trọng trong việc xây dựng và
củng cố Đảng về mặt tư tưởng, tổ chức, đưa tới thắng lợi của cách mạng Việt Nam
thời kỳ Mặt trận dân chủ, cũng là sự chuẩn bị tích cực để đi tới thắng lợi lịch sử
của Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
3. Tấm gương người cộng sản kiên cường, trọn đời vì sự nghiệp cách
mạng của Đảng, của Nhân dân
Ngày 22/6/1939, đồng chí Lê Hồng Phong bị thực dân Pháp bắt tại Sài Gòn.
Biết Đồng chí là cán bộ lãnh đạo cao cấp của Đảng, bọn mật thám Pháp dùng mọi
thủ đoạn tra tấn, dụ dỗ hòng khai thác các cơ sở cách mạng, nhưng chúng vẫn
không lay chuyển được ý chí kiên cường của Đồng chí. Không tìm ra chứng cứ
pháp lý để buộc tội đồng chí Lê Hồng Phong, ngày 30/6/1939, Tòa tiểu hình Sài
Gòn đã kết án Đồng chí 6 tháng tù giam và 3 năm quản thúc ở Nghệ An. Mặc dù
bị quản thúc gắt gao, theo dõi chặt chẽ, Đồng chí vẫn không nản chí thường xuyên
bí mật liên hệ với tổ chức, với Đảng và dành thời gian viết bài, bí mật gửi cho các
tờ báo của Đảng như tờ Dân Chúng, Đông Phương tạp chí... thể hiện tinh thần
chiến đấu ngoan cường của người cách mạng kiên trung.
Tuy đã theo dõi chặt chẽ những hoạt động của Lê Hồng Phong hòng âm mưu
tách Đồng chí ra khỏi tổ chức, cắt đứt mối liên lạc với phong trào cách mạng, với
Trung ương Đảng, song chính quyền thực dân vẫn lo ngại về sự tự do của người
cộng sản Lê Hồng Phong, vì vậy, khi chiến tranh thế giới thứ II bùng nổ, tháng
01/1940, mật thám Nam Kỳ ra Nghệ An bắt đồng chí Lê Hồng Phong lần thứ hai
và áp giải vào giam giữ tại Khám lớn Sài Gòn. Trong thời gian gần 01 năm giam
giữ, tra tấn, hành hạ thực dân Pháp vẫn không tìm được lý do để kết tội tử hình đối
với Đồng chí. Biết đồng chí Lê Hồng Phong và đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai
là vợ chồng, có con nhỏ (Hồng Minh) được mấy tháng tuổi, chúng đã để hai người
gặp nhau, hòng lung lạc tinh thần qua đó có cớ khép tội Đồng chí dính líu tới “âm
mưu lật đổ chính phủ Nam Kỳ”, nhưng chúng đã thất bại. Mặc dù vậy, thực dân
Pháp vẫn buộc tội Đồng chí phải “chịu trách nhiệm tinh thần” cho cuộc khởi nghĩa
Nam Kỳ, kết án 5 năm tù giam và 10 năm quản thúc. Cuối năm 1940, đồng chí Lê
Hồng Phong bị đày ra Côn Đảo.
Trong những ngày bị biệt giam trong hầm đá hoặc trong Banh II (nơi giam
giữ tù cộng sản), kẻ thù luôn tìm cách hành hạ, tra tấn, đánh đập dã man đồng chí
Lê Hồng Phong, hòng làm nhụt tinh thần, ý chí của người lãnh đạo cộng sản. Đây
là quãng thời gian Đồng chí trực tiếp đối mặt với mọi âm mưu, thủ đoạn dã man
và thâm độc nhất của kẻ thù. Những kinh nghiệm và lý luận trước đây đã giúp
Đồng chí hiểu thêm tính chất khốc liệt của cuộc đấu tranh giai cấp; không chỉ là
thử thách mà còn là đòi hỏi của cuộc đấu tranh để giữ vững phẩm chất, khí tiết của
người cộng sản trong thực tế hoàn cảnh tù đầy vô cùng khắc nghiệt. Có lần Đồng
chí vừa bưng bát cơm lên ăn thì bọn cai ngục xông vào đánh túi bụi, bát cơm của
Đồng chí bị nhuộm đỏ do máu chảy từ đầu, từ mặt rớt vào, nhưng Đồng chí vẫn
thản nhiên, tiếp tục ngồi ăn “bát cơm chan máu”, với quyết tâm phải sống để “còn
sống còn chiến đấu”. Những trận đòn thù tàn ác, dã man, liên tục đó làm đồng chí
Lê Hồng Phong dần dần kiệt sức. Đồng chí đã vĩnh biệt anh em, đồng chí của
mình vào trưa ngày 6/9/1942. Trước lúc đi xa, đồng chí Lê Hồng Phong còn căn
dặn: "Nhờ các đồng chí nói với Đảng rằng, tới giờ phút cuối cùng, Lê Hồng
Phong vẫn một lòng tin thắng lợi vẻ vang của cách mạng".
***
Kỷ niệm 120 năm Ngày sinh đồng chí Lê Hồng Phong diễn ra vào dịp toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới và hội
nhập quốc tế; tích cực triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XIII của Đảng, các nghị quyết về xây dựng Đảng, như: Nghị quyết Trung
ương 4 khóa XI, XII và Kết luận số 21-KL/TW ngày 25/10/2021 của Hội nghị lần
thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh
đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán
bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa”. Đây là dịp để chúng ta thành kính và tri ân công lao,
đóng góp to lớn của đồng chí Lê Hồng Phong đối với sự nghiệp cách mạng của
Đảng và dân tộc, đồng thời đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư
tưởng, đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên, Nhân dân; qua đó củng cố và bồi
đắp niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa.
Học tập, noi gương đồng chí Lê Hồng Phong và các bậc cách mạng tiền bối,
cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu cấp ủy, thủ trưởng các cơ quan, đơn vị
nêu cao tinh thần trách nhiệm, tự giác tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, hết
lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân, luôn đặt lợi ích quốc gia - dân
tộc lên trên hết, trước hết, sẵn sàng cống hiến, hy sinh vì sự nghiệp cách mạng cao
cả của Đảng và Nhân dân với tinh thần "chí công vô tư", như lúc sinh thời Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Các đồng chí ta như đồng chí Trần Phú, đồng
chí Ngô Gia Tự, đồng chí Lê Hồng Phong, đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai, đồng
chí Hà Huy Tập, đồng chí Nguyễn Văn Cừ, đồng chí Hoàng Văn Thụ và trăm
nghìn đồng chí khác đã đặt lợi ích của Đảng, của cách mạng, của giai cấp, của
dân tộc lên trên hết, lên trước hết. Các đồng chí đó đã tin tưởng sâu sắc, chắc
chắn vào lực lượng vĩ đại và tương lai vẻ vang của giai cấp và của dân tộc Tất
cả chúng ta phải noi theo các gương anh dũng, gương chí công vô tư ấy, mới xứng
đáng là người cách mạng".
BAN TUYÊN GIÁO TRUNG ƯƠNG
Tác giả:
Ban tuyên giáo Đảng ủy
Nguồn tin:
Đảng ủy xã
[Trở về]
Các tin mới hơn:
Các tin cũ hơn: